Theo phong tục của người Tây Nguyên, khi lập làng mới bao giờ cũng phải thực hiện các nghi thức cũng tế, bởi họ quan niệm đây là việc làm để thần linh chứng nhận, che chở cho cuộc sống của họ được bình yên. Hầu hết các hoạt động cúng lễ của người Tây Nguyên cũng chính là những sinh hoạt cộng đồng, có sự tham gia của cả cộng đồng. Lễ cúng bến nước là một nghi thức như thế.
Đây là một trong những nghi lễ rất quan trọng đối với người Tây Nguyên. Họ quan niệm nước còn quan trọng hơn cả cơm ăn, áo mặc. Không ăn cơm còn sống được cả tháng trời, không có áo mặt thì chỉ bị lạnh thôi, còn không có nước thì không thể sống được. Do đó Thần nước được người Tây Nguyên thờ cúng long trọng, và vô cùng linh thiêng…”.
Cũng chính vì vậy mà ngay từ khi tìm đất lập làng, người Tây Nguyên bao giờ cũng quan tâm tìm nguồn nước. Một nguồn nước dồi dào, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất chính là nơi người Tây Nguyên chọn là nơi lập làng…
Để thực hiện nghi thức này, người Tây Nguyên chọn ra những người đàn ông tài giỏi của buôn làng dựng cây nêu. Để tránh súc vật chạy qua, cây nêu sẽ được chọn dựng ở vị trí cao ráo trước nhà Rông. Một số người khác sẽ phải đi lên đầu nguồn nước để kiểm tra, đảm bảo nguồn nước trong lành sẽ chảy về làng. Trước khi tiến hành nghi lễ, từ sáng sớm, già làng sẽ đánh những hồi chuông dài báo cho buôn làng biết là sắp tổ chức lễ cúng bến nước. Bến nước hôm đó được trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, treo đồ vật trang trí.
Lễ cúng có 3 phần. Phần thứ nhất là cúng tại bến nước để cầu cho thần nước mang lại sức khỏe cho buôn làng, tiếp đó là cúng tại hàng rào trước khi mang nước vào nhà và cuối cùng là cúng tại nhà của chủ bến nước. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, người ta sẽ lấy nước vào các vật đựng nước, thường là các quả bầu khô, bỏ vào gùi và gùi về nhà lấy phước. Trong khi đó một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ...
Bắt đầu nghi thức Lễ cúng bến nước, già làng sẽ đứng nơi đầu nguồn nước, thả huyết của vật hiến sinh (vật hiến sinh thường là trâu, bò) cho chảy xuống tận cuối nguồn nước, về tận với buôn làng. Khi đó những người dân trong làng mới chính thức thực hiện nghi thức Lễ cúng bến nước. Kết thúc nghi lễ, cả buôn làng tập trung về nhà dài để ăn tiệc, uống rượu cần và nhảy múa trong không khí của lễ hội với âm vang cồng chiêng rộn rã. Những tiếng cồng, tiếng chiêng, những điệu nhảy tưng bừng đưa mọi người xích gần nhau hơn, trong tiếng hát ca.
0 nhận xét